Thời gian vừa qua có nhiều vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trong có liên quan đến lửa như vụ cháy quán karaoke hay vụ nổ bình điện khiến nhiều người thiệt mạng. Một vấn đề nhức nhối được xã hội quan tâm hơn hết đó là cách sơ cưu người bị nạn tại chỗ không đúng cách đã làm cho nạn nhân thêm nguy kịch và gặp khó khăn trong công tác điều trị của các y bác sĩ. Một số mẹo vặt dân gian như bôi kem đánh răng, mật ong hay nước mắm cho nạn nhân bị bỏng là phản tác dụng hoặc có thể gây nhiễm trùng. Chính vì tại nạn có thể xuất hiện bất cứ mọi nơi, bất cứ khi nào và đối với bất cứ ai nên chính chúng ta cần phải trang bị kiến thức sơ cứu bỏng cho riêng mình. Hãy cùng Mangdoisong.com học Cách chữa bỏng sơ cứu bỏng đúng cách khoa học nhất giúp nạn nhân thoát cơn nguy kịch nhé!
Cách chữa bỏng sơ cứu bỏng đúng cách khoa học nhất giúp nạn nhân thoát cơn nguy kịch
Đầu tiên là bạn phải trang bị kiến thức đánh giá mức độ bị bỏng ra sao. Tình trạng của cơ thể khi bị bỏng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Độ sâu của bỏng.
- Diện tích của vết bỏng.
- Vị trí của vết bỏng trên cơ thể.
1. Độ sâu của vết bỏng
Bỏng được phân loại theo độ sâu thành 3 độ:
1.1 Độ I: Bỏng bề mặt
- Trường hợp này chỉ lớp ngoài cùng da bị tổn thương làm cho da nơi bị bỏng đỏ ửng lên và đau rát do đầu mút đây thần kinh bị kích thích. Loại bỏng này thường lành hẳn sau 3 ngày.
1.2. Độ II: Bỏng một phần da
- Trường hợp này thì lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì bị tổn thương, các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước vỡ ra sẽ để lộ một bề mặt màu hồng và cũng rất đau. Nếu được giữ sạch vết bỏng sẽ tự lành sau khoảng 1-4 tuần không cần điều trị gì mà cũng không để lại sẹo hoặc sẹo nhưng không đáng kể. Nhưng tổ chức da sau khi lành vết bỏng có thể đỏ trong một thời gian dài hơn. Nếu bỏng độ II bị nhiễm khuẩn thì lớp da dưới sẽ bị phá hủy và bỏng độ II chuyển thành bỏng độ III.
- Tùy độ sâu của vết bỏng mà có cách xử lý vết thương khác nhau
1.3. Độ III
- Bỏng toàn bộ các lớp da: Toàn bộ các lớp da đều bị tổn thương bao gồm cả lỗ chân lông và tuyến mồ hôi. Vết bỏng trắng nhợt hoặc xám lại, khô cứng và mất cảm giác (không đau) và các đầu nút dây thần kinh bị phá hủy.
- Trong trường hợp bỏng rất nặng toàn bộ các lớp da thì lớp mỡ dưới da cũng có thể bị phá hủy và để lộ phần cơ.
- Khi bị bỏng toàn bộ các lớp của da thì vết bỏng chỉ được lành dần từ phía bờ các vết bỏng và các vết bỏng rất dễ bị nhiễm khuẩn do vậy thời gian lành vết bỏng thường kéo dài rất lâu.
- Độ sâu của một vết bỏng nhiều khi không đều nhau vì độ sâu của các vết bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ, nồng độ hóa chất… và thời gian mà nhiệt độ hoặc hóa chất tác động lên da. Da có xu hướng giữ nhiệt và quần áo bị đốt cháy thành than làm cho vết thương trở nên nặng nề hơn, do đó việc sử dụng quá nhiều nước để rửa vết bỏng khi mà vết bỏng vừa mới xảy ra (trong vòng 30 phút khi xảy ra tai nạn) sẽ có tác dụng làm giảm độ sâu của bỏng.
2. Diện tích vết bỏng
- Có nhiều cách để ước tính diện tích vết bỏng nhưng thông thường diện tích vết bỏng được tính toán bằng cách sử dụng quy tắc số 9.
- Bỏng càng rộng thì càng nguy hiểm hơn vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơ thể, gây đau nhiều hơn, dễ bị sốc và nhiễm khuẩn. Đối với người lớn nếu bỏng từ 15% trở lên và trẻ em từ 10% trở lên phải được coi là bỏng nặng và phải được chuyển tới bệnh viện.
- Bỏng càng rộng thì càng nguy hiểm hơn vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơ thể
3. Vị trí vết bỏng trên cơ thể
- Bỏng ở những vùng khác nhau cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tính mạng và quá trình hồi phục.
- Bỏng ở vùng mặt, cổ có thể gây phù nề chèn ép đường thở dễ bị sẹo xấu và sự biến dạng.
- Bỏng ở mắt có thể dẫn đến mù.
- Bỏng ở bàn tay hoặc vùng các khớp có thể dẫn đến co cứng, mất hoặc giảm chức nǎng hoạt động…
- Bỏng vùng lưng, vùng hậu môn sinh dục và những vùng gần hậu môn sinh dục thường có nguy cơ nhiễm khuẩn cao, kéo dài thời gian lành vết bỏng.
- Nếu nạn nhân hít phải khói, hơi nóng thì có thể gây bỏng đường hô hấp làm phù nề đường hô hấp, gây tắc nghẽn dẫn đến suy hô hấp và rất dễ dẫn đến viêm phổi…
4. Chăm sóc cấp cứu bỏng nói chung
4.1. Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo và làm mát vết bỏng
- Đây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bị bỏng sâu và rộng thêm.
- Dùng nước hoặc cát để dập tắt lửa, hoặc có thể dùng áo khoác, chǎn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa (không dùng vải nhựa, ni lông để dập lửa).
- Xé bỏ phần quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh để dội vào vùng bỏng.
- Bọc vùng bỏng chắc chắn rồi đổ nước lạnh lên. Với những vết bỏng ở tay có thể để cho nước từ vòi nước máy chảy trực tiếp lên vùng bỏng hoặc ngâm phần chi bị bỏng trong nước lạnh lên vùng bỏng nhưng phải thay thường xuyên 3-4 phút một lần cho đến khi nào nạn nhân thấy đỡ đau rát.
- Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng nhẫn trước khi vết bỏng sưng nề.
- Che phủ vùng bỏng bằng gạc, vải vô khuẩn nếu có hoặc bằng gạc hay vải sạch.
Cách xử lý vết bỏng do lửa
- Chú ý: Đừng bao giờ:
- Dùng nước đá để làm mát vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể vào trong nước.
- Tháo bỏ quần áo bị cháy đã được làm mát.
- Sờ mó vào vết bỏng.
4.2. Phòng chống sốc
- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm.
- Động viên an ủi nạn nhân.
- Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.
Chú ý:
- Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.
- Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uống.
Pha vào 1 lít nước:
+ 1/2 thìa cà phê muối ǎn.
+ 1/2 thìa cà phê muối natri bicarbonat.
2-3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.
Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường hoặc oreson.
– Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân, dùng aspirin.
Khi dùng thuốc giảm đau phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.
– Nhanh chóng chuyển nạn nhân tới cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
4.3. Duy trì đường hô hấp
- Nạn nhân bị bỏng vùng mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy mà ở đó có dầu, đồ đạc, bàn ghế, đang bốc cháy… thì sẽ nhanh chóng bị phù mặt và cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải ưu tiên số 1 và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canul vào mũi hoặc miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản…).
4.4. Phòng chống nhiễm khuẩn
- Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng và có điều kiện người cấp cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.
4.5. Bǎng vết bỏng
- Không dược bôi dầu mỡ, dung dịch cồn ngay cả kem kháng sinh vào vết bỏng.
- Không được chọc phá các túi phỏng nước
- Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng
- Nếu có điều kiện thì phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng vải càng sạch càng tốt.
- Vết bỏng sẽ chảy rất nhiều dịch nên trước khi dùng bǎng co giãn để bǎng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng.
- Khi băng vết bỏng cần băng bằng băng co giãn
Chú ý: Nếu không có bǎng co giãn thì chỉ được bǎng lỏng vùng bỏng để đề phòng khi vết bỏng sưng nề gây chèn ép.
- Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi bǎng lỏng cổ tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhàn vẫn cử động được các ngón tay một cách dễ dàng vừa tránh làm bẩn vết bỏng.
- Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và phải khuyên nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được.
5. Cấp cứu một số trường hợp bỏng đặc biệt
5.1. Bỏng điện
- Điện giật hoặc sét đánh có thể gây bỏng rất sâu, một số bệnh nhân bị bỏng điện thì cơ thể cũng bị ngừng tim do dòng diện đánh vào tim do vậy phải tiến hành cấp cứu ngừng tim ngay nếu nạn nhân bị ngừng tim rồi mới sơ cứu vết bỏng sau. Nhưng trước khi tiến hành vết bỏng phải:
- Ngắt điện
- Nếu không thể ngắt điện được thì phải gỡ nạn nhân ra khỏi sự tiếp xúc với điện (phải dùng vật cách điện: Cao su, gậy gỗ khô để gỡ hoặc kéo nạn nhân).
- Khi sơ cứu vết bỏng xong phải nhanh chóng chuyển nạn nhân tới ngay bệnh viện vì những bệnh nhân bị điện giật rất dễ có rối loạn về tim mạch.
Cách sơ cứu khi bị bỏng điện
5.2. Bỏng hóa chất
- Một số loại hóa chất như acid, kiềm mạnh hoặc iod, phospho dùng trong công nghiệp hoặc vôi mới tôi có thể gây nên tổn thương bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn; với những loại bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn với những loại bỏng do hóa chất phải:
- Rửa ngay, rửa liên tục bằng nước càng nhiều càng tốt, nếu không các tổ chức ở vùng bỏng sẽ bị hoại tử hoàn toàn.
- Nếu xác định được nguyên nhân gây bỏng là do acid thì rửa vết bỏng bằng nước có pha bicarbonat. Nếu bỏng là do kiềm thì rửa bằng nước có pha giấm, chanh. Nhưng nếu bỏng mắt do hóa chất chỉ được rửa bằng nước bình thường. Nếu trong mắt vẫn còn những hạt vôi nhỏ thì phải rửa mạnh để làm bật những hạt vôi đó ra.
- Phải tháo bỏ ngay quần áo bị dính hóa chất. Khi tháo phải lưu ý bảo vệ tay của người làm động tác đó (không dùng tay trần để tháo).
- Nếu vết bỏng chảy nhiều máu thì phải xử trí như một vết thương chảy máu.
- Chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị.
- Cấp cứu bỏng thì đơn giản không rắc rối phức tạp nhưng đòi hỏi phải cấp cứu khẩn trương, linh hoạt. Người cấp cứu thành thạo có thể tránh được nhiều biến chứng nguy hiểm cho nạn nhân. 70% số ca bỏng mà được giữ sạch thì sẽ lành tự nhiên. Nhiều ca bỏng nặng, bỏng rộng nhưng được cứu sống và để lại di chứng không đáng kể nhờ có sự cấp cứu và chǎm sóc cấp cứu ban đầu tốt.
Một số câu hỏi thường gặp để sơ cứu bỏng được các bác sĩ trả lời
- Thưa Bác sĩ! Sơ cứu ban đầu bằng cách đổ nước đá vào người bị bỏng, cách làm này có đúng không? Vì sao?
- ThS BS. Phan Thái Sơn : Theo tất cả các khuyến cáo của thế giới về vấn đề sơ cứu bỏng thì việc lấy nước đá lạnh dội vào một phần cơ thể khi bị bỏng là không đúng. Cách sơ cứu cho nạn nhân chỉ cần đưa phần cơ thể bị bỏng dội dưới vòi nước sạch hoặc ngâm trong chậu nước với nhiệt độ bình thường trong khoảng thời gian từ 15 – 20 phút.
- Việc sử dụng nước đá dội lên người nạn nhân bị bỏng thì sẽ có nguy cơ gì xảy ra?
- ThS BS. Phan Thái Sơn: Bản thân nhiệt độ của nước đá sẽ thấp hơn nhiệt độ của cơ thể rất nhiều. Thậm chí nếu bỏ nhiều đá trong nước, thì nhiệt độ đó có thể xuống gần 0 độ C. Trong khi đó, tại chỗ bị bỏng nhiệt độ cao hơn nhiệt độ cơ thể, có thể lên đến 45 – 50 độ C. Nếu dùng nước đá để hạ nhiệt độ nhanh tại chỗ như vậy thì nó sẽ làm tình trạng tổn thương của bỏng nặng lên.
Cách sơ cứu đúng cách khi bị bỏng? - ThS BS. Phan Thái Sơn: Đối với các loại bỏng nói chung, đầu tiên cần cách ly nạn nhân ra khỏi tác nhân gây bỏng. Thứ hai, để hạ nhiệt độ tại chỗ nên đưa phần cơ thể bị bỏng dội dưới vòi nước sạch hoặc ngâm trong chậu nước với nhiệt độ bình thường trong khoảng thời gian từ 15 – 20 phút. Đối với những nạn nhân khi bị bỏng mà hóa chất văng vào, thấm trên quần áo thì cần nhanh nhất cắt bỏ quần áo trên người nạn nhân. Vì khi đó, chất lỏng bám vào cơ thể như vậy, việc dội nước mát lên thì không những không thể làm hạ nhiệt độ được liền mà nhiệt độ nóng của quần áo bị ngấm hóa chất sẽ làm tăng tổn thương và độ sâu của bỏng lên. Người sơ cứu nên sử dụng dụng cụ để cắt bỏ quần áo, không nên trực tiếp lột bỏ quần áo của nạn nhân ra vì có thể làm bóc phần da bị bỏng. Sau khi cắt bỏ quần áo, tiếp tục làm phần cơ thể mà quần áo che phủ với nước sạch trong thời gian 15 – 20 phút để rửa sạch các dị vật bẩn, hóa chất và hạ nhiệt độ xuống gần nhiệt độ cơ thể bình thường. Tiếp theo, người sơ cứu sẽ dùng các băng gạc sạch phủ lên các tổn thương, tránh để các tạp bẩn tiếp tục vương vào các vết thương và vận chuyển nạn nhân đến các cơ sở y tế để đánh giá mức độ tổn thương và cấp cứu kịp thời.
- Những cách sơ cứu nạn nhân bị bỏng hay dùng trong dân gian bác sĩ có nhận định như thế nào?
- ThS BS. Phan Thái Sơn: Những thói quen trong dân gian nhưng không giúp ích cấp cứu bỏng nhiệt tốt mà còn làm tình trạng nặng hơn, ví dụ như bôi kem đánh răng, mỡ trăn hay dội nước đá lên tổn thương bỏng. Biện pháp duy nhất được khuyến cáo để hạ nhiệt độ vùng bỏng là dội nước sạch, nhiệt độ bình thường lên vùng tổn thương bỏng trong 15 – 20 phút, sau đó băng vết thương lại và đến cơ sở y tế để đánh giá mức độ tổn thương của bỏng.
- Đối với trường hợp bỏng tại Hà Nội vừa qua, xin bác sĩ cho biết đánh giá của mình về khả năng phục hồi làn da của nạn nhân?
- ThS BS. Phan Thái Sơn: Bỏng phân chia ra nhiều mức độ tùy theo diện tích bỏng, độ sâu bỏng, tác nhân gây bỏng, và vị trí bỏng. Có những tổn thương bỏng diện tích rất lớn nhưng tổn thương bỏng chỉ ở độ 1, độ 2, nghĩa là người bệnh chỉ đỏ da, có các phỏng nước đơn thuần thì việc điều trị rất đơn giản. Với những diện tích nhỏ ở tay hoặc chân, sau khi hạ nhiệt, vết bỏng sẽ dần tự liền lại. Có những loại bỏng đặc biệt như bỏng hóa chất, sau khi rửa sạch nhưng hóa chất vẫn còn bám ở tổn thương bỏng, làm vết bỏng ngày càng sâu hơn nữa, và ở các vị trí như đầu, mặt, cổ, mắt, cơ quan sinh dục thì đều là bỏng nặng. Nạn nhân cần phải đến các cơ sở y tế để đánh giá mức độ tổn thương.
Sơ cứu bỏng sai lầm hậu quả nặng nề
- Tai nạn bỏng có thể đe dọa đến tính mạng do mất nước, mất điện giải, sốc bỏng, nhiễm khuẩn vết thương, nhiễm khuẩn máu… Việc sơ cứu ban đầu rất quan trọng nhưng sơ cứu không đúng cách lại có thể khiến bệnh nặng thêm. Với trẻ nhỏ càng nặng nề hơn so với người lớn, do cơ thể trẻ đang trong giai đoạn phát triển. Những di chứng thường gặp sau bỏng là rối loạn sắc tố, ngứa, viêm da, sẹo xấu, gây co kéo cơ xương khớp, thậm chí để lại thương tật vĩnh viễn.
- BS Lương Quốc Chính cho biết, nhiều người nghĩ rằng, khi bị bỏng nếu sử dụng nước đá lạnh sẽ nhanh chóng làm giảm tổn thương của vết bỏng. Tuy nhiên, chính tác dụng lạnh của các loại nước lạnh hoặc nước đá này sẽ càng khiến cho tổn thương bỏng nặng nề hơn. Bình thường cơ thể ở nhiệt độ 37oC, khi bị bỏng cơ thể đã bị mất nhiệt, cộng thêm với bị chườm đá lạnh sẽ khiến sự mất nhiệt tăng thêm. Thêm vào đó nạn nhân có thể bị bỏng lạnh lẫn vào bỏng nóng làm nặng thêm tình trạng bỏng.
- Để xử trí khi bị bỏng, nhiều người cũng hay áp dụng bôi kem đánh răng lên vết bỏng, vì cho rằng kem đánh răng sẽ giúp giảm nhiệt. Thậm chí có một số người vội tự ý thực hiện cách rắc vôi bột chữa bỏng. Các chuyên gia cho hay, kem đánh răng hay vôi bột đều là các hóa chất chứa kiềm, khi gặp môi trường thuận lợi như các vết thương bỏng càng dễ xâm nhập gây biến chứng. Ngoài việc bỏng nhiệt, bệnh nhân còn có khả năng bị thêm bỏng kiềm. Với việc áp dụng biện pháp như dùng mỡ trăn, dầu cá, lòng trắng trứng, nước mắm… cũng cần thận trọng. Điều này rất dễ làm nạn nhân bị nhiễm khuẩn, bỏng sâu và sốc bỏng.
Sơ cứu bỏng cho trẻ
Bỏng ở trẻ nguy hiểm
- Theo số liệu thống kê của Viện bỏng Quốc gia thì cứ trong 100 nạn nhân bỏng có từ 40 đến 65 là trẻ em. Trong 100 trẻ em bị bỏng thì có từ 50 đến 60 là nằm trong độ tuổi từ 1 đến 3.
- Những tác nhân gây bỏng ở trẻ chủ yếu là do bỏng nước sôi (phích nước nóng, ấm nước nóng, nồi cơm điện), bỏng do thức ăn (canh nóng, cháo nóng) và phần còn lại là bỏng do lửa, hóa chất và điện.
Mới đây nhất, câu chuyện của bé Chu thị Quỳnh Tr. 3 tuổi quê ở Định Hoá, Thái Nguyên. Bố mẹ bé Tr trọ ở Văn Lâm, Hưng Yên để làm công nhân. Trong lúc mẹ cháu pha nước tắm do bất cẩn nên bé Tr đã ngã vào chậu nước đun sôi để pha nước tắm khiến cháu bị bỏng nặng. - Cơ thể của bé toàn vết bỏng do nước sôi, khi cởi cần áo cho bé do không biết cách khiến vùng do bỏng bị trợt ra gây nguy hiểm và nhiễm trùng cho bé.
- Cháu Tr. được gia đình đưa vào cấp cứu ở Bệnh viện Đa khoa Đức Giang sau đó bé được chuyển đến Viện Bỏng Quốc gia.
- Trường hợp của bé Tr không phải là hiếm, theo các bác sĩ mùa đông các cháu bị bỏng do nước sôi còn mùa hè các cháu bị bỏng do lửa do cồn đặc biệt là cồn nướng mực, nướng cá chỉ vàng.
- Trường hợp của bé Nguyễn Lam A. 2 tuổi trú tại Đống Đa, Hà Nội bị bỏng ở bàn tay và các kẽ ngón tay. Bà nội của bé cho biết trong lúc trông cháu, bà pha bát mì tôm. Khi chưa kịp ăn thì chạy ra ngoài nghe điện thoại.
- Bé Lam A. ở trong đã với tay vào bát mì gây bỏng nặng. Thấy cháu bị bỏng, bà nội của bé lấy vội kem đánh răng để bôi vào rồi mới gọi cho bố mẹ cháu về đưa cháu đi viện cấp cứu.
- Chỉ vì bát mì tôm mà toàn bộ tay bên phải của cháu bị bỏng nặng cộng thêm sơ cứu sai cách bằng cách bôi kem đánh răng và lòng trắng trứng khiến tay bé bị nhiễm trùng, bác sĩ phải phẫu thuật ghép da cho bé.
Sơ cứu bỏng như thế nào
- Theo thạc sĩ Ngô Anh Vinh – Khoa Cấp cứu và Chống độc, Bệnh viện Nhi trung ương cho biết bỏng nước sôi ở trẻ là bỏng nặng và xảy ra rất nhanh.
- Có những cháu chỉ vài giây không để ý đã ngã vào nồi canh, có cháu bỏng nước khi cùng mẹ pha nước tắm, có cháu thì bỏng dầu mỡ sôi, lửa hoặc điện, hóa chất. Tổn thương bỏng rất đa dạng.
- Khi bị bỏng, bác sĩ Vinh cho biết nếu bỏng ở vị trí cánh cẳng tay đặc biệt là bàn tay ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt và lao động. Ngoài ra các vị trí bỏng ở vùng mặt hoặc bộ phận sinh dục cũng rất nguy hiểm vì ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chức năng sinh sản của trẻ.
- Khi bị bỏng, việc sơ cứu ban đầu cũng rất quan trọng, nếu xử trí không đúng cách ngay từ những giây phút đầu tiên có thể khiến vết thương nhiễm trùng, lâu lành và để lại các di chứng như sẹo xấu, co rút ngón tay… thậm chí để lại những thương tật vĩnh viễn cho trẻ.
- Bác sĩ hướng dẫn cách xử lý khi bị bỏng, lưu lại ngay phòng khi cần dùng
- Tìm ra phương pháp mới điều trị bỏng không để lại sẹo
- Sau sơ cứu ban đầu, trẻ cần được đưa đến các cơ sở chuyên khoa về bỏng để điều trị kịp thời, hạn chế tối đa các biến chứng.
- Khi bị bỏng, nhanh chóng đưa vết bỏng vào dưới vòi nước hoặc vào chậu nước lạnh và sạch. Động thái này nhằm mục đích: giảm nhiệt độ bỏng, giảm đau, giảm phù nề, viêm nhiễm và giảm độ sâu của vết thương, hạn chế tổn thương lan rộng.
- Nếu không, có thể dội nước mát sạch lên đó vài lần. Ngay cả khi da không còn tiếp xúc với tác nhân gây bỏng, nhiệt tích tụ ở vết bỏng vẫn tiếp tục gây tổn thương sâu hơn. Đây là biện pháp quan trọng số một giúp giảm thiểu mức độ tổn thương.
- Tuyệt đối không dùng nước đá lạnh để làm mát vì có thể gây tổn thương da. Không bôi kem đánh răng, lòng trắng trứng lên vết bỏng để tránh làm gia tăng tổn thương, Không được tiếp xúc trực tiếp với vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn làm cho vết bỏng nặng hơn.
- Khi trẻ bị bỏng ở vùng có quần áo, sơ cứu không nên cởi bỏ quần áo khiến bị lột da vùng bỏng, nên nhanh chóng dùng kéo cắt áo quần ra tách khỏi vết bỏng tránh việc áo quần dính chặt vào vết bỏng khiến vết bỏng bị đau rát, dễ viêm nhiễm, nhẹ nhàng tháo bỏ các tư trang cá nhân, vòng lắc hoặc đồng hồ, giày dép.
- Sau đó dùng bằng gạc sạch hoặc vải mỏng băng nhẹ nhàng che phủ vết bỏng, tránh băng quá chặt làm tổn thương tại vết bỏng nặng thêm.
Như vậy là chúng ta vừa được hướng dẫn Cách chữa bỏng sơ cứu bỏng đúng cách khoa học nhất giúp nạn nhân thoát cơn nguy kịch rồi. Hy vọng rằng sau bài viết này các bạn có thể trang bị thêm cho mình những kiến thức cơ bản nhưng rất quan trọng trong việc sơ cấp cứu người bị bỏng. Hãy học và chia sẻ Cách chữa bỏng sơ cứu bỏng đúng cách khoa học nhất giúp nạn nhân thoát cơn nguy kịch với mọi người để xây dụng một xã hội phát triển toàn diện bạn nhé! Luôn đồng hành cùng chúng tôi để được cập nhật thật nhiều chuyên mục xã hội, ẩm thực, làm đẹp..v.v. Chúc các bạn luôn vui vẻ và có một gia đình hạnh phúc.